WEBSITE CHIA SẺ TÀI LIỆU

Mọi lúc – Mọi nơi

Sáng kiến kinh nghiệm Tạo tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề khi học bài 11; 12 chương trì

1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ b

o; Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững”. Chính vì th

không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều; phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng.Vì vậy những năm gần đây đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc xã hội hoá giáo dục; không ngừng cải cách, biên soạn lại sách giáo khoa; cách thức thi và ra đề thi. Để đáp ứng điều đó buộc người thầy phải thay đổi cách dạy và trò phải thay đổi cách học. Nhận thức được tầm quan trọng, sức ảnh hưởng của phương pháp dạy học đối với người học, Đảng và Nhà nước nói chung, Bộ Giáo dục nói riêng không ngừng nỗ lực bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên cả về tri thức và việc sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực “lấy người học làm trung tâm”. Tuy nhiên, cơ sở vật chất ở nhiều trường vẫn chưa đáp ứng được, số lượng học sinh trên một lớp nhiều ( Thường > 45 HS/lớp). Do đó nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực áp dụng chưa có hiệu quả. Ngay kể cả phương pháp nêu và giải quyết vấn đề không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo, được cụ thể hoá thành mục tiêu là phát triển năng lực giải quyết vấn đề - một năng lực có vị trí hàng đầu để con người thích ứng được với sự phát triển xã hội. Đây cũng là phương pháp dễ áp dụng vào mọi đối tượng học sinh, dễ khơi gợi kích thích hứng thú học tập ở các em. Nhưng thực tế cho thấy, đại đa số giáo viên ít thậm chí không sử dụng. Vốn dĩ đặc thù môn Sinh học là khoa học thực nghiệm đã được các nhà khoa học đúc kết xây dựng. Do đó việc truyền đạt kiến thức cho học sinh cũng bắt đầu từ quan sát, mô tả thí nghiệm, thực nghiệm chứng minh đi đến kết luận. Nhưng hầu như giáo viên chỉ dạy một cách máy móc lý thuyết: 1- học sinh đọc thí nghiệm SGK, 2- phần giải thích và rút ra kết luận là của thầy cô, 3- học sinh chép lại; hoặc lại quá lạm dụng công nghệ thông tin: “ thầy chiếu chiếu còn chúng em nhìn nhìn và chép chép”. Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên có sử dụng phương pháp dạy học tích cực rất hiệu quả nhưng lại chỉ dành cho các tiết thanh tra, kiểm tra hay thao giảng. Vì vậy các tiết sinh học tạo ra sự khô khan, nhàm chán cho học sinh, các em ngày càng mất dần hứng thú với bộ môn. Học sinh coi đây chỉ là môn phụ, không học hoặc học đối phó dẫn đến kết quả học tập không cao, năng lực vận dụng kiến thức giải các bài tập và vào thực tiễn rất hạn chế. Cụ thể qua các lần kiểm tra tại lớp, thi thử quốc gia mà các trường tự ra đề và kể cả thi thử do Sở tổ chức điểm môn Sinh khá lệch so 1 . với các môn tự nhiên còn lại; thậm chí nhiều học sinh đạt điểm 9, 10 môn Toán, Lí nhưng điểm môn Sinh quá thấp, nhiều em còn bị điểm liệt. Trước tình hình đó, đổi mới phương pháp dạy học Sinh học là một yêu cầu cấp thiết để giúp người dạy và người học không dừng lại ở việc nắm vững lí thuyết mà phải biết vận dụng kiến thức vào đời sống. Để nâng cao chất lượng bộ môn giáo viên cần khéo léo khai thác, sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực nhằm lôi cuốn học sinh học tập chiếm lĩnh tri thức. Qua những năm giảng dạy cùng với sự nỗ lực tìm tòi, thay đổi phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm học sinh và trường sở tại, tôi phát hiện ra sự hiệu quả khi tạo tình huống có có vấn đề trong giảng dạy đặc biệt có sự hướng dẫn để các em tự giải quyết vấn đề đó.Vì vậy, tôi viết ra đề tài: “Tạo tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề khi học bài 11; 12 chương trình sinh học 12 cơ bản” làm sáng kiến kinh nghiệm. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Tạo hứng thú học tập ở học sinh, từ đó góp phần hình thành năng lực tự học, tự bồi dưỡng kiến thức đặc biệt là năng lực tự giải quyết vấn đề cuả các em. - Đưa ra để các đồng nghiệp cùng tham khảo, để cùng nhau xây dựng hệ thống các phương pháp dạy học hiêụ quả cụ thể với từng phần kiến thức, nâng cao thế mạnh môn Sinh học. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Cách tạo tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lí luận: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá. - Phương pháp điều tra sư phạm: phương pháp phỏng vấn, phương pháp điều tra an- ket. - Phương pháp thực nghiệm: thực nghiệm tự nhiên, thực nghiệm định tính, định lượng - Phương pháp xử lí số liệu thu được khẳng định đề tài: gồm phương pháp tính tỷ lệ %, phương pháp tính điểm trung bình. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Tình huống gợi vấn đề 2.1.1.1. Thế nào là một tình huống gợi vấn đề Bài toán ơrixtic có chứa đụng mâu thuẫn nhận thức. Mâu thuẫn này phải có tác dụng sao cho chủ thể tiếp nhận nó không phải như một mâu thuẫn bên ngoài, mà như một nhu cầu bên trong. Lúc đó chủ thể ở trạng thái tâm lý độc đáo gọi là tình huống gợi vấn đề ( Hay còn gọi là tình huống có vấn đề). 2 . . Tình huống có vấn đề - theo M.L.Macmutop đó là trở ngại về trí tuệ của con người xuất hiện khi anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng, sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu và giải quyết các vấn đề. Theo thuyết thông tin, tình huống có vấn đề là trạng thái của chủ thể có một độ bất định nào đó trước việc chọn lựa một giải pháp cho tình huống trong nhiều khả năng có thể có, mà chưa biết cái nào trong số đó sẽ xuất hiện. 2.1.1.2. Các loại tình huống gợi vấn đề 2.1.1.2.1. Tình huống nghịch lý và bế tắc - Gây ra tình huống nghịch lý là một vấn đề , mà mới thoạt nhìn tưởng chừng như nó vô lý , trái khoáy, ngược đời, không phù hợp với những nguyên lý đã được công nhận chung, tức là không thể chấp nhận được. Đứng trước tình huống như vậy người ta thường thốt lên: “ Vô lý, không thể tin được!”. Tình huống này thường gặp ở các nhà khoa học có những phát minh lỗi lạc, khi gặp nhũng hiện tượng, sự kiện khoa học trái ngược với lý thuyết đương thời đang thống trị. Chính là nhờ những phát minh lớn đó mà cái nghịch lý đã được giải quyết để dẫn tới những lý thuyết mới, phế bỏ lý thuyết cũ, lỗi thời. - Gây ra tình huống bế tắc là một vấn đề mà thoạt đầu tiên ta không thể giải thích nổi bằng lý thuyết đã biết (“Không thể như thế được!”). Tình huống nghịch lý và tình huống bế tắc tuy có nét khác nhau nhưng đều có chung một nguồn gốc, một biểu hiện mà ta có thể đồng nhất chúng được. 2.1.1.2.2. Tình huống lựa chọn Mẫu thuẫn có thể xuất hiện khi chúng ta đưangs trước một lựa chọn rất khó khăn, vừa éo le, vừa oái ăm cả về tâm lý lẫn kỹ thuật, giữa hai hay nhiều phương án giải quyết. Giải pháp nào cũng có vẻ có lí, có sức hấp dẫn riêng của nó, nhưng đồng thời lại chứa đựng một nhược điểm cơ bản nào đó, làm cho sự lựa chọn gặp khó khăn. Chủ thể lại chỉ được chọn một phương án duy nhất mà thôi. 2.1.1.2.3. Tình huống “ tại sao? ” Trong lịch sử nhận thức của nhân loại , việc tìm kiếm nguyên nhân của một kết quả, nguồn gốc của một hiện tượng, động cơ của một hành động, tức là tìm lời giải cho câu hỏi “ tại sao?”, là một cách thức phổ biến, hiệu nghiệm để làm giàu thêm trí thức. Nhà hóa học lỗi lạc người Pháp M.Bectôlơ đã nói chí lý rằng:” Khoa học nâng mình lên bằng một chuỗi vô tận những “ tại sao” luôn được giải đáp và luôn nẩy sinh thêm. . 3 . . 2.1.1.3. Quy trình thực hiện Bước 1: Phát hiện hoặc thâm nhập vấn đề - Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề - Giải thích và chính xác hóa tình huống (khi cần thiết) để hiểu đúng vấn đề được đặt ra - Phát biểu vấn đề và đặt mục tiêu giải quyết vấn đề đó. Bước 2: Tìm giải pháp Tìm cách giải quyết vấn đề, thường được thực hiện theo sơ đồ sau: Giải thích sơ đồ - Phân tích vấn đề: làm rõ mối liên hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm (dựa vào những tri thức đã học, liên tưởng tới kiến thức thích hợp) - Hướng dẫn HS tìm chiến lược giải quyết vấn đề thông qua đề xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề. Cần thu thập, tổ chức dữ liệu, huy động tri thức; sử dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức, tìm đoán suy luận như hướng đích, quy lạ về quen, đặc biệt hóa, chuyển qua những trường hợp suy biến, tương tự hóa, khái quát hóa, xem xét những mối liên hệ phụ thuộc, suy xuôi, suy ngược tiến, suy ngược lùi,. Phương hướng đề xuất có thể được điều chỉnh khi . 4 . . cần thiết. Kết quả của việc đề xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề là hình thành được một giải pháp. - Kiểm tra tính đúng đắn của giải pháp: Nếu giải pháp đúng thì kết thúc ngay, nếu không đúng thì lặp lại từ khâu phân tích vấn đề cho đến khi tìm được giải pháp đúng. Sau khi đã tìm ra một giải pháp, có thể tiếp tục tìm thêm những giải pháp khác, so sánh chúng với nhau để tìm ra giải pháp hợp lí nhất. Bước 3: Trình bày giải pháp HS trình bày lại toàn bộ từ việc phát biểu vấn đề tới giải pháp. Nếu vấn đề là một đề bài cho sẵn thì có thể không cần phát biểu lại vấn đề. Bước 4: Nghiên cứu sâu giải pháp - Tìm hiểu những khả năng ứng dụng kết quả - Đề xuất những vấn đề mới có liên quan nhờ xét tương tự, khái quát hóa, lật ngược vấn đề,. và giải quyết nếu có thể. 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.2.1. Thực trạng Qua tìm hiểu thực tế tại một số trường THPT trên địa bàn huyện Tĩnh Gia nói chung và trường THPT Tĩnh Gia 3 nói riêng, tôi nhận thấy vẫn tồn tại dạy phương pháp cũ. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề đã biết nhưng hầu như không áp dụng hoặc sử dụng qua loa, chiếu lệ nên không có hiệu quả. Nguyên nhân cuả vấn đề này là do: Một là: Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức; phải có năng lực sư phạm tốt mới suy nghĩ để tạo ra được nhiều tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn tìm tòi để phát hiện và giải quyết vấn đề. Hai là: Một bộ phận giáo viên lớn tuổi không muốn đầu tư, “ngại” thay đổi phương pháp dạy học quen thuộc bấy lâu nay, thậm chí không quan tâm học sinh có tiếp thu hay lĩnh hội được kiến thức mà chỉ cần các em ngồi yên và ghi chép bài đầy đủ là tốt rồi. Ba là: Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học vẫn chưa đáp đáp ứng được đầy đủ. Bốn là: Học sinh không chịu học, coi thường bộ môn nên các giáo viên không muốn đầu tư nhiều. Một số giáo viên có áp dụng phương pháp này nhưng chỉ mang tính chất đối phó, đôi khi phản tác dụng. 2.2.2. Kết quả thực trạng Từ sự nhận thức trên nên nhiều đợt tâp huấn, nhiều chuyên đề bồi dưỡng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực giáo viên cũng học theo hình thức đối phó, đôi khi không hiểu rõ. Vì vậy việc triển khai chuyên đề tại trường cũng . 5 . .

Xem thêm Rút gọn

Bạn đang xem trước 5 trang tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh vui lòng click vào nút Download ở dưới.

docx Số trang: 14 | Định dạng: pdf | Ngày: 18/04/2024

Tên tài liệu Định dạng
Sáng kiến kinh nghiệm Tạo tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề khi học bài 11; 12 chương trì docx
Sau khi tải tài liệu, Quý khách có thể chuyển đổi file tài liệu từ PDF sang WORD miễn phí tại đây
Từ khóa:
TÀI LIỆU LIÊN QUAN